Thứ Bảy, 28 tháng 12, 2013

NGÓT MỘT THẾ KỶ VĂN CHƯƠNG ViỆT NAM ĐÃ BÒ QUA CHU VI THƠ MỚI?

Nguyễn Hoàng Đức


Thơ Mới xuất hiện những năm ba mươi thế kỷ 20, giờ đây đang là những ngày cuối năm 2013, như vậy là văn thơ mới Việt Nam đã hành trình ngót nghét một thế kỷ. Nhưng không có gì không có khúc dạo đầu, cũng chẳng có gì thoát nổi sự bào thai ngay trong lòng nó, Thơ Mới xuất hiện 1930-1945, cũng không ngoại lệ, thực ra nó được sửa soạn từ khi chữ quốc ngữ ra đời từ 1621 (không có chữ quốc ngữ không có thơ mới), nhưng sự mang thai khẩn thiết và chín muồi của nó bắt đầu từ ban mai thế kỷ 20, khi chí khí khao khát độc lập, tự do và tiến bộ của giới trí thức và nhân dân Việt Nam dâng rất cao.

Thơ Mới rõ ràng đã là đỉnh cao của thơ ca Việt, một đỉnh cao độc nhất vô nhị trong quá khứ chưa từng có, và song hành với nó là một nền văn xuôi rất mới mẻ vỡ hoang tầm vóc và tương xứng với thơ, ra đời với những tên tuổi và tác phẩm như “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Chí Phèo” của Nam Cao, hay “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng…

Thơ Mới là một đỉnh cao, cũng là mùa gieo hạt đầu tiên, hạt đấy phải nảy mầm thành cây vươn cao, thành đại thụ… nhưng giờ đây sau rất nhiều đánh giá từ mọi hướng, chúng ta vẫn chưa vượt qua được thời Thơ Mới, và vẫn cứ mệt mỏi hát bài ca “bao giờ cho đến ngày xưa”…

Ngót một thế kỷ gieo hạt đã trôi qua, chúng ra thăm đồng vẫn thấy chỉ toàn lúa lép. Vậy giờ đây chúng ta thử “cân” đong những thứ hạt mà mình thu được. Ngoài vài tác phẩm kể trên, cũng như sự đáng tiếc giành cho các tài năng lớn như Vũ Trọng Phụng hay Hàn Mạc Tử yểu mệnh, nói chung mấy nhà văn tiền bối như Ngô Tất Tố hay Nam Cao vẫn chưa chín muồi để có một tầm vóc “đại văn hào” với nhiều tác phẩm hay tư tưởng đồ sộ. Dẫu vậy những đỉnh cao này dường như chưa có ai thời mới vượt qua. Có rất nhiều bằng chứng cho việc này, chẳng hạn, văn học mạng là thứ văn học tốc độ nhất, tiện lợi nhất, hiện đại nhất, nhưng mới đây theo nhiều đánh giá của các nhà chuyên môn giỏi cả mạng lẫn văn học, đã đành chính thức tuyên bố: sau 5 năm, văn học mạng chẳng có thành tựu gì đáng kể, coi như thất bát trắng tay. Hoặc có rất nhiều người trẻ quan niệm rằng: thời nay hiện đại, tuổi trẻ nhanh nhạy, tiếp thu nhiều tiến bộ của thời đại, nên các cây viết trẻ viết khác và hay hơn xưa nhiều. Đây là cách nghĩ hoàn toàn phiến diện. Chẳng hạn như tôn giáo là đức tin và trí tuệ cao bậc nhất của loài người, nhưng hơn 2000 năm nay, nhân loại chưa nghĩ được ra thứ tôn giáo nào lớn hơn các tôn giáo đã có. Về triết học, một chuyên gia “lật đổ” như Nietzsche đã thú nhận “chúng ta không làm gì được nhiều hơn tổ sư của chúng ta”. Còn về thời đại, nhiều chuyên gia cảnh báo: thế hệ mới có nhiều nguy cơ rơi vào mù văn hóa mới. Văn chương không phải là thời trang mà cần mốt mới hay hiện đại. Văn chương là suy tư, triết lý và tư tưởng. Đó là điểm mạnh không cãi nổi của văn chương. Mà nếu có ai muốn cãi lại điều này thì đều thất bại hoặc mang một tầm vóc bé. Để dễ hiểu, tôi xin đưa ra vài minh chứng ở châu Á, như thi hào Tagore, Tôn Trung Sơn, Lỗ Tấn… tất nhiên còn rất nhiều cây bút vui vẻ cảm xúc, nhưng đó là mối quan tâm thứ hai của chúng ta. Mà với những người thích chinh phục đỉnh cao thì “thứ hai” không bao giờ còn là mối quan tâm nữa, hoặc nếu có chỉ là mối quan tâm của kẻ yếu. Thực tế đã được nhiều cây bút trẻ chứng minh và thú nhận, họ nói: càng ngày càng thiếu những tư duy đồ sộ bởi vì người ta chỉ chú trọng vào cái cấp thời của văn chương chớp nhoáng trên mạng.

Giờ chúng ta nên đi vào kiểm kê những tài sản đã đạt được. Ngoại trừ vài khuôn mặt có tấm có món mà chưa trở thành đại văn hào nghễu nghện đồ sộ, còn lại Việt Nam chỉ có thơ. Mà thơ thì sao? Như một loạt các bài nghiên cứu rất tỉ mỉ cụ thể, thì hầu hết các nhà thơ dù rất danh tiếng cũng thường chỉ là tác giả của một bài. Còn một vài nhà văn dù rất nổi tiếng nhưng nếu xét nét ra thì cũng thuổng chỗ này chỗ kia nhiều lắm. Điều đó cũng logic thôi, vì khi trí tuệ yếu ớt, thiếu vốn thì người ta đành “mượn” tạm.

Tóm tắt, khuôn mặt văn chương hiện đại Việt Nam có tài sản gì? Nói chung, chủ yếu là thơ với tài năng dù rất tài cũng chỉ một bài, nếu bắt tay viết trường ca thì hầu hết thất bại vì không kiếm được nhân vật mà chỉ là kéo dài những cảm xúc lê thê. Về tiểu thuyết, như nhiều chứng kiến, các nhà văn Việt cứ viết tập hai là quanh co nhạt nhẽo. Giờ chúng ta thử đếm mấy thành tựu. Nhà văn Nguyễn Khải một người rất khá về vốn kiến thức và bản lĩnh, nhưng thừa nhận “cả đời tôi tạo được ra mỗi Tuy Kiền”. “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn là bức tranh về tù nhân rất sinh động và vật vã, nhưng dường như chỉ có thế, nếu đem so với “Papilon người tù khổ sai” của Charrière Henry thì không gian phiêu lưu cũng như tình tiết hấp dẫn không thể bằng, nhưng Papilon cũng chỉ là thứ ghi chép á văn học mà thôi. “Đêm thánh nhân” của Nguyễn Đình Chính cũng khá đồ sộ nhưng dường như là văn du lịch đi từ mỏ đá đến nhà mồ Tây Nguyên… Đây cũng là đặc trưng của văn thơ Việt muốn kéo dài thì chẳng có cách nào khác là dùng “cấu trúc chiều ngang” đi theo mạch của địa lý nhiều hơn là đi chiều dọc của mục đích tư tưởng. “Cơ hội của Chúa” của Nguyễn Việt Hà cũng gây đình đám nhưng cũng là một thứ cấu trúc chiều ngang, thứ chiều ngang sinh hoạt, nhân vật chính đi hết cuộc nhậu này đến cuộc nhậu khác mang theo tư duy không quan trọng hơn chính chai rượu. Còn một ông vua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng không thể quên lãng, nhưng có điều ông vua này không thể hóa men của truyện ngắn thành chất liệu cho tiểu thuyết. Còn các khuôn mặt nữ, Phạm Thị Hoài được trang bị văn hóa rất cẩn thận ở Đức, hay Dương Thu Hương đã có “Bên kia bờ ảo vọng” từ rất sớm, nhưng rõ ràng hai con tầu có vẻ lớn này chưa thể cập bến cảng đồ sộ. Còn vài nhân vật mới như Đặng Thân với “Những mảnh hồn trần” dường như là đại biểu cao cấp cho văn chương “hiện đại”, nhưng liệu anh đi xa bao nhiêu hay lại trở thành “đại diện cho mùa thất thu của văn học mạng”? Nguyễn Một với hai tiểu thuyết “Đất trời vẫn vũ” và “Ngược mặt trời” đã xây dựng bút pháp huyền ảo khá logic công phu, anh đã chạm đến cả siêu hình học, đức tin… Chỉ có điều người ta vẫn cảm thấy anh như một hậu vệ chưa dùng hết sức bình sinh sút bóng vào “gôn”, nghĩa là vẫn chưa tới và chưa đã, lại phải chờ trận chung kết của anh.

Những năm qua, công bằng mà nói “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh là gặt hái nhiều ý nghĩa thành công bậc nhất cả trong và ngoài nước. Có những tờ báo uy tín về văn học của Mỹ đã đánh giá Bảo Ninh là “Sự phản tỉnh đầu tiên về chiến tranh Việt Nam” (the first reflexion on theVietnam war). Nhưng cũng có điều nhà văn này dường như không thể chắp thêm toa cho đoàn tầu sự nghiệp của mình. Có một lần tôi đến thăm nhà văn Nguyễn Kiên, một người yêu và bái phục văn chương của Bảo Ninh từ đỉnh đầu đến gót chân, đã nói vài lần: viết như Bảo Ninh như một kẻ say, lảo đảo, không biết mình đang viết cái gì, có như vậy mới có áng văn bất hủ như “Nỗi Buồn chiến tranh”. ? Viết như kẻ say, viết bằng cảm tính, chính thế người ta mới hết vốn không thể viết thêm được. Và viết như say, thì chẳng bao giờ thành chuyên nghiệp cả, và thật khó mà đạt tới tầm vóc của một nhà văn đồ sộ, bởi vì có một phương ngôn “người chuyên nghiệp là người sáng tác được cả ngay trong lúc không hưng phấn”.

Trong bài này, hầu như tôi không bàn đến tầm vóc của thơ, bởi lẽ thơ còn chưa vượt được thời Thơ Mới thì bàn làm gì. Vả lại, tôi đang ưu tiên bàn đến tác phẩm và tác giả đồ sộ tầm vóc, thì chu vi của một bài thơ bé quá, một trang giấy in thơ không thể đủ tầm vớt nền văn học của dân tộc đang từ đống bèo thành trái núi. Có rất nhiều người Việt biện hộ rằng “hay không cốt dài”, có thể thế, nhưng đồ sộ, vĩ đại, hoành tráng không phải tầm vóc của vài cọng rau hay bốn hòn gạch tứ tuyệt.

Giờ chúng ta hãy trả lời câu hỏi cốt tử: tại sao nền văn học đã có một khởi đầu đẹp như trong mơ từ thời Thơ Mới lại không thể nhúc nhích tiến bộ tí nào?

Một chiếc đồng hồ không thể vận động nếu kim giây chạy không kéo theo kim phút và kim giờ. Tiến bộ, hình ảnh biểu tượng của thế giới là leo cầu thang. Qua khảo sát và sống chung với người Việt, các tác giả Việt, tôi thấy rõ một điều: chúng ta thiếu vắng trầm trọng khả năng tư duy của lý trí. Chính thế mà kết cấu cho các tiểu thuyết lỏng lẻo, truyện ngắn thiếu tình tiết, thơ không thể mang nhân vật. Và không có lý trí thì chắc chắn người ta không thể tiến bộ vì theo triết học: cảm xúc là bản năng muôn đời không bao giờ thay đổi. Chỉ có lý trí và tư tưởng thay đổi mà thôi.

Tất cả các ngôi nhà lớn hay vươn lên tầm cao thì đều đòi hỏi sự cấu kết của kiến trúc, vậy mà chúng ta đòi dựa vào cảm xúc thì làm sao có kết cấu cho kiến trúc hay tác phẩm đồ sộ. Có phải vì thế mà chúng ta chỉ đóng nổi chuồng chim, chuồng gà cho sáng tạo mấy vần thơ lẻ? (nói cho sang chứ làm một chuồng chim còn công phu hơn một bài thơ ngắn tũn).

Nền văn học muốn lớn thì cũng phải dựa trên nền bạn đọc lớn. Dân số nước ta ngót một trăm triệu người đang ở tốp cường quốc rồi, vậy mà các cuốn sách in ra chỉ cỡ một nghìn, không bằng một huyện lẻ của nước khác… Dân trí chúng ta thấp như vậy, thì bao giờ văn học cũng như sách vở mới được đặt lên đỉnh não?

Sách là tư duy lại không ở trên đầu, vậy thì chỉ còn những thứ thơ cảm xúc bẻo lẻo đọc tứ tung để hú hí mua vui và cầu tí danh hờ vặt vãnh. Vậy thì bao giờ chúng ta mới bò ra khỏi chu vi có diện tích “đựng hạt men” của thời Thơ Mới? Nếu chúng ta không chịu sáng tạo bằng lý trí thì chắc chắn đó là chu vi bất khả vượt qua!

NHĐ 28/12/2013

Tác giả gửi cho NTT blog

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét